Bóng đêm và vận mệnh: Chương I

novela-emblem

CHƯƠNG MỘT

MÁU ĐỔ TRÊN PHỐ, VINH QUANG TRONG CÁI CHẾT, XUỐNG VỚI QUÝ BÀ RÂU

Bọn Lưỡi Đao Đồ Tể treo tên Quạ Xám trên cây cọc, bỏ mặc gã cho lũ ăn xác thối ngoài bến tàu. Trong đêm nay, đây là tên lưu manh thứ mười bảy bị giết trước sự chứng kiến của người mang mũ trùm.

Một đêm chậm chạp theo chuẩn của Bilgewater.

Ít nhất là kể từ khi Vua Hải Tặc bị hạ bệ.

Bầy chuột cầu cảng đã ăn gần hết chân kẻ bị treo và đang leo lên đống giỏ câu để thưởng thức phần thịt mềm nơi bắp đùi.

Người mang mũ trùm tiếp tục đi.

“Cứu. Tôi.”

Giọng nói nghèn nghẹn vang lên. Người mang mũ trùm quay phắt lại, tay đặt lên vũ khí.

Thật lạ là tên Quạ Xám vẫn còn sống sau khi bị cây cọc xuyên qua. Bọn Đồ Tể đã đóng nó sâu vào trong khung gỗ của một cần trục. Chẳng có cách nào đưa gã xuống mà không giết chết gã cả.

“Cứu. Tôi,” gã lặp lại.

Người mang mũ trùm ngừng lại, cân nhắc lời thỉnh cầu của gã Quạ Xám.

“Để làm gì?” cuối cùng anh nói. “Dù có đưa được ngươi xuống, ngươi cũng không sống được đến sáng.”

Tên Quạ Xám cho tay vào túi ngầm của áo chẽn và lấy ra một đồng Kraken vàng. Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, người mang mũ trùm cũng thấy nó là tiền thật.

Bầy thú ăn xác rú rít và xù lông lên khi anh lại gần. Chuột cầu cảng chẳng to lớn gì, nhưng miếng thịt nóng ấm kia không phải một phần thưởng mà chúng dễ dàng từ bỏ. Chúng nhe những chiếc nanh dài, nhọn như kim, và phun phì phì.

Anh đá văng một con xuống nước, dẫm bẹp con thứ hai. Chúng cắn trả, nhưng đôi chân khéo léo của anh né được bằng những bước di chuyển nhịp nhàng và chính xác. Anh giết thêm ba con nữa trước khi lũ còn lại chạy tứ tán vào bóng tối, cặp mắt đỏ rực giữa màn đêm.

Người mang mũ trùm đứng cạnh tên Quạ Xám. Diện mạo của anh bị che khuất sau lớp vải, nhưng dưới ánh trăng đơn độc, người ta cũng có thể hình dung ra một khuôn mặt đã từ lâu không nở nụ cười.

“Cái chết dành cho ngươi,” anh nói. “Hãy chào đón nó. Đừng lo lắng, ta đảm bảo nó sẽ nhanh chóng thôi.”

Anh lần tìm trong áo choàng và lấy ra một cây dùi bạc. Dài hai gang và phủ đầy những ký hiệu cuộn xoắn dọc theo thân, nó trông giống một thứ dụng cụ hoa mỹ của những nghệ nhân đồ da. Anh đặt mũi nhọn vào dưới cằm người đang hấp hối.

Đôi mắt kẻ khốn khổ mở to, gã quờ quạng cố nắm lấy tay áo người mang mũ trùm trong khi anh nhìn ra ngoài đại dương rộng lớn. Mặt biển như một tấm gương đen lấp lánh phản chiếu những ngọn nến, những lò than ngoài bến cảng và những ánh đèn chiếu ra từ ô kính của hàng ngàn con tàu.

“Các ngươi biết thứ gì ẩn náu bên kia đường chân trời,” anh nói. “Các ngươi biết nỗi kinh hoàng mà nó mang lại. Thế mà các ngươi vẫn cắn xé lẫn nhau như bầy thú dại. Thật vô lý.”

Anh quay lại và ấn mạnh cây dùi. Tên Quạ Xám giãy lên một cái và nỗi đau của gã chấm dứt. Đồng vàng rơi qua kẽ tay, lăn xuống nước.

Người mang mũ trùm rút cây dùi ra và lau nó vào cái áo rách nát của kẻ chết. Anh cất nó vào trong áo choàng và lấy ra một cây kim bằng vàng cùng một đoạn chỉ bạc ngâm trong nước suối Ionia.

Bằng sự thành thạo của một người đã thực hiện nhiệm vụ này nhiều lần trước đây, anh khâu mắt và miệng kẻ chết lại. Trong lúc làm việc, anh xướng lên những từ ngữ đã được dạy từ lâu, những từ ngữ từng thốt ra từ miệng một vị vua đã băng hà nhiều đời trước.

“Giờ cái chết không thể chạm tới ngươi,” anh nói khi kết thúc công việc và cất chỗ dụng cụ đi.

“Có lẽ là không, nhưng chúng tao sẽ không rời đi tay trắng, chắc chắn là thế,” một giọng nói vang lên phía sau người mang mũ trùm.

Anh quay lại và bỏ mũ trùm, để lộ ra làn da sẫm màu, xương gò má cao và quý tộc. Mái tóc đen buộc túm lại và đôi mắt từng thấy những điều kinh khủng ngoài sức tưởng tượng đang đánh giá những kẻ mới đến.

Sáu tên, mặc áo da vấy máu, tay áo cắt cụt để lộ ra những cánh tay cơ bắp phủ đầy hình xăm gai nhọn. Mỗi tên cầm một cây móc có răng cưa, thắt lưng lủng lẳng đủ loại dao hàng thịt. Bọn kẻ cướp mới nổi sau sự sụp đổ của tay bạo chúa từng cai trị Bilgewater bằng nắm đấm sắt. Với sự biến mất của hắn, thành phố chìm trong hỗn loạn khi các băng nhóm thù địch tranh giành nhau lãnh địa mới.

Chẳng ai che giấu được việc chúng đến gần. Ủng đóng đinh, mùi hôi và tiếng chửi thề đã thông báo sự xuất hiện của chúng trước cả khi chúng chường mặt ra.

“Tao không để ý đến việc một đồng xu rớt xuống chỗ Quý Bà Râu đâu,” tên to con nhất trong đám Đồ Tể nói, gã có cái bụng bự đến nỗi người ta phải thắc mắc liệu gã có thể đến đủ gần một cái xác để xẻ thịt nó không. “Nhưng một trong chúng tao đã giết thằng nhãi kia một cách công bằng, chắc chắn là thế. Nên đồng Kraken đó là của chúng tao.”

“Các ngươi muốn chết ở đây à?” người mang mũ trùm hỏi.

Tên béo phá lên cười.

“Mày biết mày đang nói chuyện với ai không?”

“Không. Ngươi thì sao?”

“Thế thì nói đi, để tao có thể khắc nó lên bia mộ của mày.”

“Tên ta là Lucian,” anh nói, hất áo choàng về sau và rút ra một cặp súng lục làm từ đá và thứ kim loại sáng bóng mà ngay cả những nhà giả kim điên rồ nhất ở Zaun cũng không biết đến. Một luồng sáng chói lòa khiến gã béo gục xuống với một cái lỗ cháy xém ở nơi từng là trái tim của gã.

Khẩu súng lục thứ hai của Lucian nhỏ hơn, chế tạo tinh xảo hơn, và bắn ra một tia lửa vàng cắt đôi một tên khác.

Y như lũ chuột cầu cảng, chúng bỏ chạy, nhưng Lucian hạ từng tên một. Mỗi chớp sáng là một phát bắn đoạt mạng và trong nháy mắt sáu tên Đồ Tể nằm la liệt trên mặt đất.

Anh cất súng đi và kéo áo choàng quấn quanh người. Nhiều tên khác sẽ bị thu hút tới bởi tiếng động của chuyện vừa xảy ra, và hắn không có thời gian để cứu linh hồn những kẻ đó khỏi thứ đang đến.

Lucian thở dài. Đúng là sai lầm khi dừng lại vì gã Quạ Xám, nhưng có lẽ con người trước đây của anh vẫn chưa hoàn toàn mất đi. Một ký ức chực trỗi dậy và anh lắc đầu để xua tan nó.

“Ta không thể lại trở thành kẻ đó,” Lucian nói.

Anh không đủ mạnh để giết Cai Ngục Xiềng Xích.

Bộ giáp của Olaf phủ đầy máu. Ông gầm gừ khi vung cây rìu được rèn ra trong Chân Băng ở nơi tận cùng của Freljord. Một lỗ hổng mới lại mỗi lần thứ vũ khí đó bổ xuống.

Cầm cây đuốc rực cháy ở tay kia, ông lội qua đống nội tạng của con Krakenwyrm, mở ra một con đường sau mỗi nhát rìu. Ông mất ba giờ để đến chui vào trong cái xác khổng lồ của con thủy quái.

Đúng là con quái thú đã chết từ một tuần trước sau một tháng dài săn đuổi từ phương Bắc. Hơn ba chục mũi lao phóng ra từ những cánh tay mạnh mẽ trên boong tàu Nụ Hôn Mùa Đông đã xuyên thủng lớp da đầy vảy của nó, nhưng chính mũi giáo của Olaf mới chính thức kết thúc trận chiến.

Giết quái vật giữa tâm một cơn bão ngoài khơi Bilgewater thật là phấn khích, và trong một lúc ngắn ngủi – khi con thuyền chồm lên và suýt nữa ném ông vào bụng con thú – ông nghĩ đó có thể là thời khắc ông đánh lừa được số phận và nhận lấy cái chết huy hoàng ông hằng tìm kiếm.

Nhưng rồi cái tay Svarfell lái tàu đó, quỷ tha ma bắt đôi vai cường tráng của gã đi, đã đưa con thuyền về thế cân bằng.

Và thật buồn là Olaf đã sống. Gần thêm một ngày nữa với nỗi sợ phải chết yên bình trên giường như một lão già lụ khụ.

Họ thả neo ở Bilgewater, hy vọng sẽ bán được cái xác và thu hoạch chiến tích từ nó; những cái răng sắc nhọn, loại máu đen cháy được như dầu, và bộ xương sườn khổng lồ để làm mái cho lâu đài của mẹ ông.

Đám người trong bộ tộc, kiệt sức sau cuộc săn, đang ngủ trên sàn tàu Nụ Hôn Mùa Đông, nhưng Olaf thì không thể nghỉ ngơi. Ông cầm rìu lên và bắt tay vào xẻ thịt con quái vật to xác này.

Cuối cùng hắn cũng thấy được khoang miệng của nó, một cái túi đủ lớn để nuốt cả một bộ tộc hoặc nghiền nát một con thuyền ba mươi tay chèo. Hàm răng như những cái đục bằng đá đen.

Olaf gật gù. “A. Rất vừa để làm một vòng lửa cho những kẻ lữ hành và đám thầy bói.”

Ông cắm cây đuốc xuống và bắt đầu công việc, chặt vào xương hàm đến khi một cái răng rời ra. Giắt búa vào thắt lưng, Olaf nhấc nó lên và đặt lên vai, khẽ rủa trước sức nặng của nó.

“Cứ như một con quỷ khổng lồ đi kiếm băng xây tổ,” ông càu nhàu rồi lần mò tìm đường ra.

Cuối cùng ông cũng bước qua lỗ hổng của vết thương bên sườn con Krakenwyrm và hít đầy phổi thứ không khí trong lành hơn một chút. Bilgewater là một đống hổ lốn những khói, sương và xác chết. Không khí nơi này nặng mùi của quá nhiều người sống chen chúc như một chuồng gia súc.

Ông nhổ một bãi nước bọt và nói, “Olaf trở về phương Bắc sớm chừng nào tốt chừng ấy.”

Không khí của Freljord sắc lạnh đến thấu xương. Ở đây thì toàn mùi sữa hỏng và thịt ôi.

“Này!” một giọng nói vọng qua mặt nước.

Olaf liếc nhìn vào bóng tối và thấy một ngư dân đã chèo thuyền ra biển, phía bên kia một hàng phao đánh dấu chẳng hiểu sao lại treo đầy chim chết và chuông.

“Con quái đó vừa thải anh ra hả?” người đánh cá kêu lên.

Olaf gật đầu và nói, “Tôi không có tiền đi tàu, nên tôi để nó nuốt mình ở Freljord và đưa xuống phương Nam.”

Người đánh cá cười và uống một ngụm từ cái chai vỡ bằng thủy tinh xanh. “Tôi sẽ ngồi đây và nghe câu chuyện dài đó!”

“Hãy lên tàu Nụ Hôn Mùa Đông và hỏi Olaf,” ông hét lên. “Chúng ta sẽ cùng làm một thùng Gravöl và vinh danh con quái này với những bài ca về cái chết.”

Không khí quanh Cầu Cảng Trắng thường đầy mùi phân chim và cá chết. Hôm nay nó lại có mùi khét của thịt cháy và gỗ bị thiêu rụi, thứ mùi khiến Miss Fortune liên tưởng tới cái chết của vô số thủ hạ của Gangplank. Tro bụi nhuộm đen bầu trời và khói nồng nặc bay về phía Tây từ những thùng mỡ thủy quái trên Cảng Lò Mổ. Miss Fortune thấy khó chịu trong miệng và nhổ xuống đám ván gỗ cong queo của cầu cảng. Mặt nước bên dưới nổi váng lên với những thứ phân hủy ra từ hàng ngàn xác chết chìm bên dưới từ nhiều năm nay.

“Ngươi và những người khác đã có một đêm bận rộn đấy,” cô nói, hất đầu về phía làn khói đang bốc lên phía vách đá phía Tây.

“Ây, đúng là thế,” Rafen đồng ý. “Quá nhiều thủ hạ của Gangplank chìm xuồng trong hôm nay.”

“Ngươi kiếm được bao nhiêu?” Miss Fortune nói.

“Thêm mười tên Vách Núi,” Rafen nói. “Và bọn Vảy Xương sẽ không làm phiền chúng ta nữa.”

Miss Fortune gật đầu đồng ý và quay sang nhìn cỗ đại bác bằng đồng chạm trổ công phu trên bến cảng.

Jackknife Byrne nằm trong đó; chết bởi phát đạn anh trúng phải trong cái ngày mà mọi thứ thay đổi, cái ngày mà Vũng Tử Thần nổ tung trước con mắt của toàn thể cư dân Bilgewater.

Viên đạn đáng ra sẽ bắn vào cô.

Giờ là lúc Byrne chìm xuống đó cùng những người chết khác và cô phải ở đó để chứng kiến. Khoảng hai trăm người, đàn ông và đàn bà, đến để bày tỏ lòng kính trọng; những phụ tá của cô, thành viên cũ trong băng của Byrne và những người lạ mà cô nghĩ có lẽ là thủy thủ đoàn trước đây hoặc những kẻ tò mò muốn đến để nhìn người đã hạ Gangplank.

Byrne nói anh từng có một con tàu riêng, một chiến hạm hai cột buồm từng là nỗi kinh hoàng trên bờ biển Noxus, nhưng cô cũng chỉ nghe anh kể như vậy. Có thể đúng, có thể sai, nhưng ở Bilgewater, sự thật thường kỳ lạ hơn bất kỳ câu chuyện nào được những người hát rong kể lại.

“Ta thấy ngươi cũng khiến bọn chúng đánh lẫn nhau ngoài Cảng Lò Mổ nữa đấy chứ,” Miss Fortune vừa nói vừa phủi tro bụi dính trên áo. Mái tóc đỏ đổ xuống dưới cái mũ ba sừng và phủ lên vai áo choàng.

“Ừ, không khó để khiến bọn Chó Phố Chuột và Vua Cầu Cảng chống đối nhau,” Rafen nói. “Ven Gallar luôn nhòm ngó đến khu này. Người của Says Travyn lấy nó của ông già hắn chừng mười năm trước.”

“Thật hả?”

“Ai biết chứ?” Rafen nói. “Chẳng quan trọng. Gallar sẽ nói bất kỳ điều gì để giành quyền kiểm soát phần này của cảng. Tôi chỉ giúp hắn chút thôi.”

“Giờ cũng chẳng còn nhiều để mà kiểm soát nữa.”

“Đúng,” Rafen nhe răng cười đồng ý. “Chúng giết nhau chết gần hết rồi. Chưa tính đến việc một trong hai băng đó sẽ sớm gây rắc rối cho chúng ta nữa.”

“Thêm một tuần thế này và sẽ không còn tay chân nào của Gangplank sống sót.”

Rafen nhìn cô lạ lùng và Miss Fortune giả bộ không nhận ra.

“Thôi, cho Byrne yên nghỉ đi,” Miss Fortune nói.

Họ bước đến chỗ khẩu đại bác, sẵn sàng lăn nó xuống biển. Một rừng vật đánh dấu bằng gỗ bập bềnh trên mặt nước, từ những đĩa gỗ đơn giản đến những bức tượng rắn biển cầu kỳ.

“Có ai muốn nói gì không?” Miss Fortune hỏi.

Mọi người im lặng, và cô gật đầu với Rafen, nhưng trước khi họ đưa được khẩu đại bác xuống nước, một giọng nói oang oang vang khắp cầu cảng.

“Ta có lời muốn nói.”

Miss Fortune quay lại và thấy một phụ nữ to lớn mặc bộ váy sặc sỡ đang bước xuống bến cảng hướng về phía họ. Một đội quân xăm trổ đầy mình đi theo sau; mười hai thanh niên cầm giáo, súng lục nòng rộng và chùy cong. Chúng đi nghênh ngang như một đám lưu manh tự phụ, đứng cạnh người phụ nữ như thể chúng sở hữu cả bến cảng này.

“Bảy địa ngục ơi, bà ta làm gì ở đây?”

“Illaoi biết Byrne à?”

“Không. Bà ta biết ta,” Miss Fortune nói. “Ta nghe nói bà ta và Gangplank từng có chuyện với nhau, ngươi biết không?”

“Thật à?”

“Vậy lời đồn là đúng.”

“Quý Bà Râu ạ, thảo nào mấy tuần trước người của Okao lại gây khó dễ cho chúng ta đến thế.”

Illaoi mang theo một quả cầu đá nặng nề như mỏ neo của chiếc Syren. Vị nữ tư tế mang theo nó đến bất kỳ nơi nào bà ta tới, và Miss Fortune nghĩ nó là một dạng vật tổ cho tín ngưỡng của người bản xứ. Cái mà những người khác gọi là Quý Bà Râu thì họ gọi bằng một cái tên gần như không thể phát âm nổi.

Illaoi lôi từ đâu ra một quả xoài đã bóc vỏ và cắn một miếng. Bà ta nhai nhóp nhép bằng cái miệng rộng ngoác như nòng pháo.

Cả đời này Miss Fortune chưa bao giờ ước ao một khẩu đại bác sẽ được nạp đạn và châm lửa đến thế.

“Một người dân của Bilgewater xứng đáng được Nagakabouros ban phúc, phải không?”

“Sao lại không nhỉ?” Miss Fortune đáp. “Anh ta đi xuống gặp nữ thần mà.”

“Nagakabouros không sống dưới lòng biển sâu,” Illaoi nói. “Chỉ những kẻ da hồng ngu ngốc mới nghĩ thế. Nagakabouros nằm trong tất cả những gì chúng ta làm để đưa chúng ta đi con đường của chúng ta.”

“Vâng, tôi mới ngu ngốc làm sao,” Miss Fortune nói.

Illaoi nhổ phần xơ của quả xoài xuống nước và vung quả cầu đá ra xung quanh như một viên đạn pháo khổng lồ, giơ nó lên trước mặt Miss Fortune.

“Cô không ngốc, Sarah,” Illaoi bật cười nói. “Nhưng cô thậm chí còn không biết cô là ai, cô đã làm gì.”

“Thật ra thì bà làm gì ở đây, Illaoi? Vì anh ta ư?”

“Ha! Hoàn toàn không,” Illaoi khịt mũi. “Đời ta là dành cho Nagakabouros. Một vị thần hay một con người? Lựa chọn kiểu gì vậy?”

“Chẳng có gì,” Miss Fortune. “Quá đen cho Gangplank.”

Illaoi cười, mồm vẫn đầy những xoài.

“Cô không làm sai,” bà ta chầm chậm gật đầu, “nhưng cô vẫn không chịu nghe tôi. Cô gỡ một con cá chình đao ra khỏi móc câu, cô phải dẫm lên cổ nó và bước đi trước khi nó cắm ngập hàm răng vào cô. Thế là mọi chuyển động của cô sẽ vĩnh viễn mất đi.”

“Thế là thế quái nào?”

“Hãy đến gặp ta khi cô hiểu ra,” Illaoi cầm lấy tay cô. Một lá bùa bằng san hô hồng, với những đường vân tỏa ra từ một điểm trung tâm trông như một con mắt mở trừng trừng, được đặt vào bàn tay cô.

“Giữ lấy đi,” Illaoi nói.

“Cái gì thế?”

“Một dấu hiệu của Nagakabouros để dẫn dắt cô khi cô lạc lối.”

“Thế thật ra nó là cái gì?”

“Chẳng là gì hơn những điều tôi vừa nói.”

Miss Fortune lưỡng lự, nhưng có quá nhiều người ở đây để cô có thể công khai chống lại nữ tư tế của Quý Bà Râu bằng cách từ chối món quà của bà ta. Cô cầm lá bùa và bỏ mũ ra để đeo nó vào trong khi Illaoi ghé về phía trước và thì thầm.

Illaoi cúi xuống thì thầm.

“Tôi không nghĩ là cô ngu ngốc đâu,” Illaoi nói. “Hãy chứng minh là tôi đúng đi.”

“Sao tôi phải quan tâm xem bà nghĩ gì?” Miss Fortune đáp trả.

“Vì một cơn bão đang đến,” Illaoi nói, hất đầu về phía thứ gì đó đằng sau vai Miss Fortune. “Cô biết nó, nên tốt nhất cô nên sẵn sàng chiến đấu.”

Bà ta quay đi và đá khẩu đại bác có chứa Byrne ra khỏi cầu cảng. Nó rơi ùm xuống nước và chìm dần trong một đám bọt bong bóng trước khi cái váng chất phân hủy tái hiện, để lại một vật đánh dấu dập dềnh để chỉ ra ai đang nằm bên dưới.

Vị nữ tư tế của Quý Bà Râu quay về ngôi đền trên miệng vách đá theo con đường bà ta đã đến, và Miss Fortune trầm ngâm nhìn ra biển.

Một cơn bão đang nhen nhóm trong lòng đại dương sâu thẩm, nhưng đó có phải nơi Illaoi đã nhìn không.

Bà ta đã nhìn về phía Quần Đảo Bóng Đêm.

Chưa có ai câu cá ở Vịnh Bilgewater vào ban đêm.

Tất nhiên là Piet biết tại sao, anh đã biết những vùng nước này cả đời. Những dòng thủy lưu phản trắc, những tảng đá ngầm náu mình ngay dưới mặt nước, và đáy biển đầy xác những con tàu mà thuyền trưởng của chúng đã không dành cho biển cả sự tôn trọng tương xứng. Nhưng, quan trọng hơn, ai cũng biết linh hồn những người bị chết chìm dưới biển đang rất cô đơn và muốn người khác gia nhập đội ngũ của họ.

Piet biết tất cả, nhưng anh vẫn phải nuôi gia đình.

Con tàu của thuyền trưởng Jerimiad đã cháy thành than trong trận giao tranh giữa Gangplank và Miss Fortune, Piet giờ không có việc làm và không có tiền mua thức ăn.

Anh tu hết nửa chai rượu táo để có can đảm đẩy thuyền xuống nước trong đêm, và viễn cảnh được uống rượu cùng một gã Freljord khổng lồ giúp anh vững tâm lại.

Piet uống thêm một ngụm rượu, giật mạnh phần râu dưới cằm và bắt đầu rót một vòng để tỏ lòng tôn kính với Quý Bà Râu.

Được hơi men ủ ấm, Piet chèo thuyền qua đám phao cảnh báo và lũ chim chết mắc trên đó đến khi anh tới được vùng biển gần nơi anh đã gặp may đêm trước. Jeremiad luôn nói anh có cái mũi đánh hơi được nơi cá sẽ cắn câu, và anh thấy rằng chúng sẽ tụ tập lại ở nơi những xác chết trong vụ Vũng Tử Thần trôi giạt đến.

Piet thu mái chèo và xếp chúng lại gọn ghẽ trước khi uống nốt chai rượu. Sau khi chắc rằng mình vẫn còn để lại một ngụm trong chai, anh ném nó xuống biển. Bằng những ngón tay mệt mỏi, run run vì say, anh móc vào lưỡi câu những con dòi lấy ra từ xác chết và buộc dây câu lên cọc.

Anh nhắm mắt và cúi gập người bên hông thuyền, đặt hai tay xuống nước.

“Nagakabouros,” anh nói, hy vọng dùng cái tên bản xứ của Quý Bà Râu sẽ mang lại nhiều may mắn hơn, “tôi không đòi hỏi gì nhiều. Làm ơn giúp tên đánh cá nghèo khổ này và cho anh ta vài miếng trong kho thức ăn của người. Hãy trông nom tôi và giữ tôi an toàn. Và nếu tôi chết trong vòng tay người, hãy đón nhận tôi dưới đó giữa những người đã khuất.”

Piet mở mắt.

Một khuôn mặt nhợt nhạt đang nhìn lại, chập chờn trên mặt nước. Ngọn lửa lạnh, không chút sinh khí tỏa sáng mờ mờ trên nó.

Anh hét lên và ngã ngửa xuống thuyền khi đám dây câu lần lượt bị kéo căng ra. Chúng khiến con thuyền quay vòng vòng khi sương cuộn lên từ mặt biển. Màn sương nhanh chóng trở nên dày đặc và ánh sáng trên những vách đá của Bilgewater biến mất trong bóng tối tràn vào từ ngoài khơi xa.

Tiếng kêu chối tai của một con chim chết cất lên giữa đám phao cảnh báo, theo sau đó là tiếng leng keng của những cái chuông khi những xác chim lắc lư theo gió.

Màn Sương Đen…

Piet quờ quạng với lấy mái chèo, cố gắng đặt chúng vào vị trí trong hoảng sợ. Màn sương lạnh cóng và những sợi chỉ đen chết chóc len lỏi qua da anh khi nó tràn đến. Anh rùng mình khi cái lạnh của cõi chết chạy dọc xương sống.

“Quý Bà Râu, Mẹ Biển Sâu, Nagakabouros,” anh thổn thức. “Làm ơn hãy dẫn tôi về nhà. Làm ơn, tôi cầu xin-”

Piet không bao giờ kết thúc được lời khẩn cầu của mình.

Một cặp móc xích bật ra từ ngực anh, những giọt máu đỏ sẫm nhỏ xuống từ đầu móc. Cái móc thứ ba xuyên qua bụng, một cái khác xuyên qua cổ. Cái thứ năm và sáu khoét qua bàn tay và hất anh ngã xuống, ghim Piet lên sàn thuyền.

Cơn đau chạy qua người anh và anh hét lên khi một khuôn mặt tàn ác bay ra từ màn sương đen. Ngọn lửa màu ngọc lục bảo tỏa sáng trên cái đầu có sừng của nó, và những cái lỗ do bầy linh hồn thù hận tạo ra rực cháy khi chúng ngấu nghiến nỗi đau của anh.

Bóng ma đó mặc một bộ áo choàng màu đen xưa, và một chùm chía khóa rỉ sét kêu sột soạt ở bên hông. Trên tay hắn nắm chắc một cây đèn lồng đầy tiếng than vãn và lắc lư trong niềm vui bệnh hoạn.

Piet cảm nhận linh hồn mình dần tách rời hơi ấm của da thịt khi lớp kính của cây đèn lồng đến từ địa ngục mở ra để đón anh vào. Sâu trong đó là tiếng rên rỉ của những linh hồn đang bị giày vò đến phát điên trong nỗi khổ đau bất tận. Piet cố gắng giữ linh hồn lại trong cơ thể, nhưng một lưỡi đao ma quái cắt qua và quãng thời gian anh có mặt trên thế giới chấm dứt khi lồng kính đóng sập lại.

“Ngươi là một linh hồn khốn khổ,” kẻ tước đoạt sự sống của anh nói, giọng hắn như tiếng sỏi rải trên bia mộ. “Nhưng ngươi là kẻ đầu tiên Thresh có được trong đêm nay.”

Màn sương đen khẽ lay động, và hình bóng những ác linh, những hồn ma đang gào thét và những kỵ sĩ ma quỷ xuất hiện trong đó.

Bóng tối trỗi dậy từ biển cả và tràn vào đất liền.

Và những ngọn đèn ở Bilgewater vụt tắt.

Tổng hợp từ lienminh.garena.vn.