Bóng đêm và vận mệnh: Chương I

Bộ giáp của Olaf phủ đầy máu. Ông gầm gừ khi vung cây rìu được rèn ra trong Chân Băng ở nơi tận cùng của Freljord. Một lỗ hổng mới lại mỗi lần thứ vũ khí đó bổ xuống.

Cầm cây đuốc rực cháy ở tay kia, ông lội qua đống nội tạng của con Krakenwyrm, mở ra một con đường sau mỗi nhát rìu. Ông mất ba giờ để đến chui vào trong cái xác khổng lồ của con thủy quái.

Đúng là con quái thú đã chết từ một tuần trước sau một tháng dài săn đuổi từ phương Bắc. Hơn ba chục mũi lao phóng ra từ những cánh tay mạnh mẽ trên boong tàu Nụ Hôn Mùa Đông đã xuyên thủng lớp da đầy vảy của nó, nhưng chính mũi giáo của Olaf mới chính thức kết thúc trận chiến.

Giết quái vật giữa tâm một cơn bão ngoài khơi Bilgewater thật là phấn khích, và trong một lúc ngắn ngủi – khi con thuyền chồm lên và suýt nữa ném ông vào bụng con thú – ông nghĩ đó có thể là thời khắc ông đánh lừa được số phận và nhận lấy cái chết huy hoàng ông hằng tìm kiếm.

Nhưng rồi cái tay Svarfell lái tàu đó, quỷ tha ma bắt đôi vai cường tráng của gã đi, đã đưa con thuyền về thế cân bằng.

Và thật buồn là Olaf đã sống. Gần thêm một ngày nữa với nỗi sợ phải chết yên bình trên giường như một lão già lụ khụ.

Họ thả neo ở Bilgewater, hy vọng sẽ bán được cái xác và thu hoạch chiến tích từ nó; những cái răng sắc nhọn, loại máu đen cháy được như dầu, và bộ xương sườn khổng lồ để làm mái cho lâu đài của mẹ ông.

Đám người trong bộ tộc, kiệt sức sau cuộc săn, đang ngủ trên sàn tàu Nụ Hôn Mùa Đông, nhưng Olaf thì không thể nghỉ ngơi. Ông cầm rìu lên và bắt tay vào xẻ thịt con quái vật to xác này.

Cuối cùng hắn cũng thấy được khoang miệng của nó, một cái túi đủ lớn để nuốt cả một bộ tộc hoặc nghiền nát một con thuyền ba mươi tay chèo. Hàm răng như những cái đục bằng đá đen.

Olaf gật gù. “A. Rất vừa để làm một vòng lửa cho những kẻ lữ hành và đám thầy bói.”

Ông cắm cây đuốc xuống và bắt đầu công việc, chặt vào xương hàm đến khi một cái răng rời ra. Giắt búa vào thắt lưng, Olaf nhấc nó lên và đặt lên vai, khẽ rủa trước sức nặng của nó.

“Cứ như một con quỷ khổng lồ đi kiếm băng xây tổ,” ông càu nhàu rồi lần mò tìm đường ra.

Cuối cùng ông cũng bước qua lỗ hổng của vết thương bên sườn con Krakenwyrm và hít đầy phổi thứ không khí trong lành hơn một chút. Bilgewater là một đống hổ lốn những khói, sương và xác chết. Không khí nơi này nặng mùi của quá nhiều người sống chen chúc như một chuồng gia súc.

Ông nhổ một bãi nước bọt và nói, “Olaf trở về phương Bắc sớm chừng nào tốt chừng ấy.”

Không khí của Freljord sắc lạnh đến thấu xương. Ở đây thì toàn mùi sữa hỏng và thịt ôi.

“Này!” một giọng nói vọng qua mặt nước.

Olaf liếc nhìn vào bóng tối và thấy một ngư dân đã chèo thuyền ra biển, phía bên kia một hàng phao đánh dấu chẳng hiểu sao lại treo đầy chim chết và chuông.

“Con quái đó vừa thải anh ra hả?” người đánh cá kêu lên.

Olaf gật đầu và nói, “Tôi không có tiền đi tàu, nên tôi để nó nuốt mình ở Freljord và đưa xuống phương Nam.”

Người đánh cá cười và uống một ngụm từ cái chai vỡ bằng thủy tinh xanh. “Tôi sẽ ngồi đây và nghe câu chuyện dài đó!”

“Hãy lên tàu Nụ Hôn Mùa Đông và hỏi Olaf,” ông hét lên. “Chúng ta sẽ cùng làm một thùng Gravöl và vinh danh con quái này với những bài ca về cái chết.”